Nhân khẩu Hoa_Kỳ

Các nhóm sắc tộc lớn nhất theo từng quận, 2000
Bài chi tiết: Nhân khẩu Hoa Kỳ
Lịch sử dân số
Năm điều traDân sốTỉ lệ
17903.929.214
18005.308.48335.1%
18107.239.88136.4%
18209.638.45333.1%
183012.866.02033.5%
184017.069.45332.7%
185023.191.87635.9%
186031.443.32135.6%
187038.558.37122.6%
188050.189.20930.2%
189062.979.76625.5%
190076.212.16821.0%
191092.228.49621.0%
1920106.021.53715.0%
1930123.202.62416.2%
1940132.164.5697.3%
1950151.325.79814.5%
1960179.323.17518.5%
1970203.211.92613.3%
1980226.545.80511.5%
1990248.709.8739.8%
2000281.421.90613.2%
2010308.745.5389.7%
Ước tính 2017[229]325.719.1785.5%
Dữ liệu dân số 1610–1780.[230]
Lưu ý rằng các số điều tra dân số làm
không bao gồm Người Mỹ bản địa cho đến năm 1860.[231]

Vào ngày 1 tháng 7 năm 2017, Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính dân số của đất nước là 325.719.178 người và sẽ tăng thêm 1 người sau mỗi 13 giây, nghĩa là tăng khoảng 6.646 người mỗi ngày[232]. Dân số Hoa Kỳ đã tăng gần gấp 4 lần trong thế kỷ 20, từ 76,2 triệu người năm 1900 lên 281,4 triệu người vào năm 2000.[233]. Hiện Hoa Kỳ là nước đông dân thứ ba trên thế giới, chỉ xếp sau Trung QuốcẤn Độ. Tỉ lệ tăng dân số trung bình là 0,7% vào năm 2014 [234]. Tỉ lệ sinh 13/1.000 người, thấp hơn mức trung bình của thế giới [235]. Năm 2006, 1,27 triệu di dân được cấp phép cư ngụ hợp pháp. México đã và đang là nguồn dẫn đầu các di dân mới của Hoa Kỳ trên hai thập niên qua; kể từ năm 1998, Trung Quốc, Ấn Độ, và Philippines là các quốc gia có số lượng người nhập cư đến Mỹ mỗi năm đông nhất.[236]. Tính đến năm 2015, 47% người nhập cư là người gốc Latinh, 26% là người gốc châu Á, 18% là người da trắng và 8% là người da đen. Tỷ lệ người nhập cư là người châu Á đang tăng lên trong khi tỷ lệ người gốc Latinh đang giảm [237]. Hoa Kỳ là quốc gia công nghiệp hóa duy nhất mà sự gia tăng dân số lớn lao được tiên đoán.[238]

Làn sóng nhập cư đã khiến dân số Hoa Kỳ tiếp tục tăng nhanh chóng với dân số sinh ra ở ngoại quốc tăng gấp đôi từ gần 20 triệu vào năm 1990 đến hơn 40 triệu trong năm 2010. Dân số sinh ra ở nước ngoài đạt 45 triệu người trong năm 2015 [239]. Hoa Kỳ có một dân số đa chủng tộc-31 nhóm sắc tộc có dân số trên 1 triệu người.[240] Người da trắng là nhóm chủng tộc lớn nhất trong đó người gốc Đức, gốc Ireland, và gốc Anh chiếm ba trong số bốn nhóm sắc tộc lớn nhất. Người Mỹ gốc châu Phi, đa số là con cháu của các cựu nô lệ, là nhóm chủng tộc thiểu số đông nhất Hoa Kỳ và là nhóm sắc tộc lớn hạng ba. Người Mỹ gốc châu Á là nhóm chủng tộc thiểu số lớn hạng nhì của Hoa Kỳ; hai nhóm sắc tộc người Mỹ gốc châu Á lớn nhất là người Hoangười Filipino. Năm 2010, dân số Hoa Kỳ bao gồm một con số ước tính là 5,2 triệu người thuộc sắc tộc bản thổ châu Mỹ hoặc bản thổ Alaska và gần 1 triệu người gốc bản thổ Hawaii hay người đảo Thái Bình Dương [241]. Cho đến phong trào đòi quyền công dân trong những năm 1960, các nhóm chủng tộc thiểu số ở Hoa Kỳ, nhất là người da đen và người da đỏ bản địa đã phải đối mặt với sự phân biệt đối xử cả về quyền lợi chính trị lẫn kinh tế [242]. Hành vi phân biệt chủng tộc chính thức bị cấm dưới thời Tổng thống Johnson qua Đạo luật về Quyền Công dân năm 1964 và trở thành hành vi không thể chấp nhận cả về mặt xã hội lẫn đạo đức. Nhiều người cho rằng cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2008 là một bước tiến trong mối quan hệ giữa các chủng tộc ở Mỹ: người Mỹ da trắng đã đóng vai trò quan trọng trong việc bầu Barack Obama trở thành tổng thống da màu đầu tiên của nước này.[243] Đa số người Mỹ ngày nay không chấp nhận chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, một bộ phận người Mỹ da trắng vẫn tiếp tục giữ định kiến tiêu cực về các nhóm chủng tộc và sắc tộc thiểu số[244].

Sự gia tăng dân số của người nói tiếng Tây Ban Nha là một chiều hướng nhân khẩu chính. Khoảng 44 triệu người Mỹ gốc nói tiếng Tây Ban Nha tạo thành chủng tộc thiểu số lớn nhất tại Hoa Kỳ. Khoảng 64% người nói tiếng Tây Ban Nha có gốc từ México.[245] Giữa năm 2000 và 2004, dân số nói tiếng Tây Ban Nha của Hoa Kỳ tăng 14% trong khi dân số không phải người nói tiếng Tây Ban Nha tăng chỉ 2%.[246] Phần nhiều sự gia tăng dân số là vì di dân: Đến năm 2004, 12% dân số Hoa Kỳ sinh ra ở ngoại quốc, trên phân nửa con số đó là từ châu Mỹ Latinh.[247] Sinh sản cũng là một yếu tố: Phụ nữ nói tiếng Tây Ban Nha trung bình sinh ba người con trong đời của mình. Tỉ lệ tương tự là 2,2 đối với phụ nữ da đen không nói tiếng Tây Ban Nha và 1,8 cho phụ nữ da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha (dưới con số quân bình thay thế là 2,1).[238] Người nói tiếng Tây Ban Nha chiếm gần như phân nửa con số gia tăng dân số quốc gia 2,9 triệu từ tháng 7 năm 2005 đến tháng 7 năm 2006.[248] Ước tính theo chiều hướng hiện tại thì vào năm 2050, người da trắng gốc không nói tiếng Tây Ban Nha sẽ là 50,1% dân số, so với 69,4% năm 2000.[249] Người da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha đã ít hơn phân nửa dân số tại bốn tiểu bang: California,[250] New Mexico,[251] Hawaii,[252]Texas[253], cũng như tại Đặc khu Columbia.[254]

Theo một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Viện Williams, 9 triệu người Mỹ, hoặc khoảng 3,4% số người trưởng thành tại Mỹ tự nhận mình là người đồng tính, song tính hoặc chuyển giới [255][256]. Một cuộc thăm dò của Gallup năm 2016 cũng kết luận rằng 4,1% người Mỹ trưởng thành được xác định là LGBT. Tỷ lệ cao nhất đến từ Đặc khu Columbia (10%), trong khi tiểu bang thấp nhất là Bắc Dakota với 1,7% [257]. Trong một cuộc khảo sát năm 2013, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh cho thấy 96,6% người Mỹ được xác định là thẳng (dị tính), trong khi 1,6% được xác định là đồng tính nam hoặc đồng tính nữ và 0,7% được xác định là người lưỡng tính [258].

Hoa Kỳ có mức độ đô thị hóa cao, khoảng 83% dân số sống trong 361 vùng đô thị.[259] Năm 2005, 254 khu hợp nhất tại Hoa Kỳ có dân số trên 100.000 người, 9 thành phố có hơn 1 triệu dân, và 4 thành phố cấp thế giới có trên 2 triệu dân (Thành phố New York, Los Angeles, Chicago, và Houston).[260] Hoa Kỳ có 50 vùng đô thị có dân số trên 1 triệu dân.[261] Trong số 50 vùng đô thị phát triển nhanh nhất, 23 vùng đô thị nằm ở miền Tây và 25 vùng đô thị ở miền Nam. Trong số 20 vùng đô thị đông dân nhất của Hoa Kỳ, các vùng đô thị như Dallas (hạng tư lớn nhất), Houston (hạng sáu), và Atlanta (hạng chín) cho thấy có con số gia tăng lớn nhất giữa năm 2000 và 2006 trong khi vùng đô thị Phoenix (hạng 13) phát triển con số lớn nhất về phần trăm dân số.

Thành phố New York
5 thành phố có dân số đông nhất tại Hoa Kỳ (2006)[260][262]
HạngThành phốDân số
trong phạm vi thành phố
Vùng đô thịMiền[263]
Dân sốhạng
1Thành phố New York8.214.42618.818.5361đông bắc Hoa Kỳ
2Los Angeles3.849.37812.950.1292Miền Tây Hoa Kỳ
3Chicago2.833.3219.505.7483Trung Tây Hoa Kỳ
4Houston2.144.4915.539.9496Miền Nam Hoa Kỳ
5Phoenix1.512.9864.039.18213Miền Tây Hoa Kỳ

Ngôn ngữ

Mặc dù Hoa Kỳ không có ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang, nhưng tiếng Anh Mỹ (American English) là ngôn ngữ quốc gia.

Năm 2010, khoảng 230 triệu người hay 80% dân số tuổi từ 5 trở lên nói tiếng Anh ở nhà. Tiếng Tây Ban Nha, có trên 10% dân số nói ở nhà, là ngôn ngữ thông dụng thứ hai và được dạy rộng rãi như ngôn ngữ ngoại quốc.[264] Các di dân muốn nhập tịch phải biết tiếng Anh. Một số người Mỹ cổ vũ việc biến tiếng Anh thành ngôn ngữ chính thức của Hoa Kỳ vì nó là ngôn ngữ chính thức tại ít nhất 32 tiểu bang.[265] Cả tiếng Hawaiitiếng Anhngôn ngữ chính thức tại Hawaii theo luật tiểu bang.[266] Một số lãnh thổ vùng quốc hải cũng công nhận ngôn ngữ bản thổ của họ là ngôn ngữ chính thức cùng với tiếng Anh: Tiếng Samoatiếng Chamorro được Samoa thuộc MỹGuam lần lượt công nhận là ngôn ngữ chính thức của họ; tiếng Carolinetiếng Chamorro được Quần đảo Bắc Mariana công nhận; tiếng Tây Ban Nha là tiếng chính thức của Puerto Rico. Trong lúc cả hai tiểu bang này không có một tiếng chính thức nào, New Mexico có luật cho phép sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha giống như Louisiana làm vậy đối với tiếng Anh và tiếng Pháp.[267]

Các ngoại ngữ được dạy rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ, về số lượng học sinh từ mẫu giáo đến đại học, là: tiếng Tây Ban Nha (khoảng 7,2 triệu người học), tiếng Pháp (1,5 triệu), và tiếng Đức (500.000). Các ngôn ngữ thường được dạy khác (từ 100.000 đến 250.000 người học) bao gồm tiếng Latinh, tiếng Nhật, ASL, tiếng Ýtiếng Trung [268][269]. 18% số người Mỹ tuyên bố nói ít nhất một thứ ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh [270].

Ngôn ngữ được nói tại nhà bởi hơn 1 triệu người Mỹ (2016)[271][272][lower-alpha 2]
Ngôn ngữTỷ lệSố người nóiSố người nói tiếng Anh thông thạoSố người nói Tiếng Anh chưa thông thạo
Tiếng Anh (chỉ có)~80%237.810.023N/AN/A
Tiếng Tây Ban Nha
(không tính Puerto Rico)
13%40.489.81323.899.42116.590.392
Tiếng Trung Quốc
(mọi biến thể, bao gồm cả tiếng Quan Thoạitiếng Quảng Đông)
1,0%3.372.9301.518.6191.854.311
Tiếng Tagalog
0,5%1.701.9601.159.211542.749
Tiếng Việt0,4%1.509.993634.273875.720
Tiếng Ả Rập
0,3%1.231.098770.882460.216
Tiếng Pháp
0,3%1.216.668965.584251.087
Tiếng Triều Tiên0,2%1.088.788505.734583.054

Tôn giáo

Bài chi tiết: Tôn giáo tại Hoa Kỳ
Một nhà thờ trong Vành đai Kinh Thánh, nơi có phần lớn dân cư theo đạo Tin Lành trường phái phúc âm.

Chính phủ Hoa Kỳ không kiểm soát tín ngưỡng của người dân.[273] Trong một cuộc thăm dò tư nhân thực hiện năm 2014, có khoảng 70,6% người Mỹ trưởng thành tự xem mình là tín hữu Kitô giáo, giảm từ 86,4% trong năm 1990. Các giáo phái Tin Lành chiếm 46,5% trong khi Giáo hội Công giáo Rôma hiện là nhánh Kitô giáo độc lập lớn nhất, chiếm 20,8%.[274] Một cuộc nghiên cứu khác vào năm 2007 cho thấy người da trắng Tin Lành phái phúc âm (evangelical) chiếm 26,3% dân số; đây là nhóm Tin Lành đông nhất;[275] tổng số người theo Tin Lành phái phúc âm của tất cả các chủng tộc chiếm từ 30 tới 35%.[276] Nhiều nhóm cư dân châu Âu đến định cư tại Bắc Mỹ là những người mong muốn xây dựng cuộc sống mới được đảm bảo tự do tôn giáo để thực hành tín ngưỡng của mình. Các quan niệm được đề cao ở Hoa Kỳ như tự do, dân chủ, nền cộng hòa, trách nhiệm cá nhân, sự chăm chỉ, đạo đức lao động, sự thịnh vượng và chủ nghĩa tư bản được cho là tương thích với tư tưởng của nhiều phái Tin Lành. Sự sùng đạo là một đặc điểm của Hoa Kỳ và tôn giáo là một nhân tố quan trọng trong xã hội tại đây. Hầu hết các Tổng thống Mỹ đều đặt tay tuyên thệ trên cuốn Kinh Thánh và tự đặt mình dưới sự che chở của Chúa.[277]

Tổng số người ngoài Kitô giáo theo số liệu năm 2014 là 5,9%, tăng từ 3,3% hồi năm 1990. Các tôn giáo không phải Kitô giáo có số người theo đông nhất là Do Thái giáo (1,9%), Hồi giáo (0,9%), Phật giáo (0,7%), Ấn Độ giáo (0,7%).[274] Giữa năm 1990 và 2001, số người theo Hồi giáoPhật giáo gia tăng gấp đôi. Năm 1990 có 8,2% và năm 2014 có 22,8% dân số tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri, thuyết vô thần, hoặc không tôn giáo,[278][279] vẫn tương đối ít hơn so với một số quốc gia phát triển khác như Anh QuốcThụy Điển.

Cấu trúc gia đình

Tính đến năm 2007, 58% người Mỹ từ 18 tuổi trở lên đã kết hôn, 6% là góa phụ, 10% đã ly hôn và 25% chưa bao giờ kết hôn [280].

Tỷ lệ mang thai ở tuổi vị thành niên của Hoa Kỳ là 26,5 trên 1.000 phụ nữ. Tỷ lệ này đã giảm 57% kể từ năm 1991 [281]. Năm 2013, tỷ lệ sinh ở tuổi vị thành niên cao nhất là ở bang Alabama và thấp nhất ở bang Wyoming [281][282]. Phá thai là hợp pháp trên toàn bộ lãnh thổ Hoa Kỳ, sau vụ Roe v. Wade, một quyết định mang tính bước ngoặt vào năm 1973 của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ [283]. Trong khi tỷ lệ phá thai đang giảm, tỷ lệ phá thai là 15 trên 1.000 phụ nữ trong độ tuổi từ 15-44 vẫn cao hơn so với hầu hết các quốc gia phương Tây [283]. Năm 2013, độ tuổi trung bình khi sinh con đầu lòng là 26 và 40,6% ca sinh con đầu lòng là của phụ nữ chưa kết hôn [284].

Tổng tỷ suất sinh (TFR) năm 2016 là 1,82 ca sinh trên 1000 phụ nữ [285]. Việc nhận con nuôi ở Hoa Kỳ là phổ biến và tương đối dễ dàng từ quan điểm pháp lý (so với các nước phương Tây khác) [286]. Năm 2001, với hơn 127.000 con nuôi, Hoa Kỳ chiếm gần một nửa tổng số con nuôi trên toàn thế giới [287]. Hôn nhân đồng giới là hợp pháp trên toàn quốc, sau quyết định của Tòa án Tối cao năm 2015. Tuy vậy chế độ đa thê là bất hợp pháp trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ [288].

Giáo dục

Bài chi tiết: Giáo dục Hoa Kỳ
Viện Đại học Virginia do Thomas Jefferson thiết kế là một trong 19 Di sản thế giới UNESCO tại Hoa Kỳ

Giáo dục công lập Hoa Kỳ do chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương đảm trách và do Bộ Giáo dục Hoa Kỳ điều phối bằng những quy định hạn chế liên quan đến những khoản trợ giúp của liên bang. Ở hầu hết các tiểu bang, trẻ em từ 6 hoặc 7 tuổi bắt buộc phải đi học cho đến khi được 18 tuổi; một vài tiểu bang cho phép học sinh thôi học ở tuổi 16 hay 17.[289] Khoảng 12% trẻ em ghi danh học tại các trường tư thục thế tục hay mang tính chất tôn giáo. Chỉ có khoảng hơn 2% trẻ em học ở nhà.[290] Hoa Kỳ có nhiều trường đại họcviện đại học tư thục cũng công lập nổi tiếng có chính sách tuyển chọn sinh viên khắt khe như Đại học Harvard, nhưng cũng có các trường đại học cộng đồng ở địa phương cho phép sinh viên tự do ghi danh vào học. Trong số những người Mỹ tuổi từ 25 trở lên, 84,6% tốt nghiệp trung học, 52,6% có theo học đại học, 27,2% có bằng đại học, và 9,6% có bằng sau đại học.[291] Tỉ lệ biết đọc biết viết ở mức cơ bản là khoảng 99%.[161][292] Liên Hiệp Quốc đánh giá Hoa Kỳ có chỉ số giáo dục là 0.97, đứng thứ 12 trên thế giới.[293]

Y tế

Tuổi thọ trung bình của người Mỹ vào năm 2013 là 78,9 tuổi [294][295][296]. Tuổi thọ trung bình của người Mỹ vào năm 2006 là 77,8 tuổi[297], thấp hơn con số tính chung của Tây Âu 1 năm, thấp hơn Na Uy 3 năm và ngắn hơn Thụy Sĩ 4 năm.[298] Hơn 20 năm qua, thứ hạng về tuổi thọ trung bình của quốc gia đã giảm từ hạng 11 vào năm 1987 xuống hạng 42 của thế giới vào năm 2007[299]. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh là 6,17 trên một ngàn trẻ vào năm 2014, đứng thứ 56 trong tổng số 224 quốc gia, đứng sau tất cả các nước Tây Âu [300]. Khoảng 1/3 dân số trưởng thành béo phì và thêm 1/3 có trọng lượng cân quá khổ;[301] tỉ lệ béo phì là cao nhất trong số các nước phát triển, đã tăng gấp đôi trong 1/4 thế kỷ qua.[302] Bệnh tiểu đường loại 2 có liên quan đến béo phì là căn bệnh thế kỷ đáng lo ngại đối với các nhà chăm sóc sức khỏe nghiệp vụ.[303]

Tỉ lệ có thai ở tuổi vị thành niên là 79,8/1.000 phụ nữ thì cao gấp 4 lần so với Pháp và 5 lần so với Đức.[304] Việc phá thai tại Hoa Kỳ là một nguồn tạo ra tranh cãi chính trị sôi động. Nhiều tiểu bang cấm dùng công quỹ vào việc phá thai và có luật hạn chế việc phá thai vào thời kỳ sắp sinh nở, bắt buộc thông báo cho cha mẹ của trẻ vị thành niên muốn phá thai, và cưỡng bách một thời kỳ chờ đợi trước khi tiến hành phá thai. Trong khi việc phá thai có giảm sút, tỉ lệ phá thai tại Hoa Kỳ 241 vụ trên 1.000 trẻ sinh ra đời và tỉ lệ 15 vụ trên 1.000 phụ nữ tuổi từ 15–44 thì vẫn còn cao hơn so với đa số các quốc gia Tây Âu.[305]

Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ vượt mức chi tiêu bất cứ quốc gia nào khác, tính theo cả số chi tiêu cho mỗi đầu người và phần trăm GDP.[306] Không như đa số các quốc gia phát triển khác, hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ không hoàn toàn là công ích, thay vào đó nó dựa vào tiền chi trả của cả công cộng và tư nhân. Năm 2004, bảo hiểm tư nhân đã trả khoảng 36% chi tiêu về sức khỏe cho cá nhân, tiền túi của bệnh nhân chiếm 15% và chính phủ liên bang, tiểu bang và địa phương trả khoảng 44%.[307]

Chi phí y tế ở Mỹ nhìn chung là rất cao, một đợt khám bệnh nhẹ cũng có thể phải trả hàng trăm USD, bệnh nặng điều trị dài ngày có thể tốn kém hàng trăm ngàn USD. Chi phí y tế quá cao là lý do thông thường nhất khiến cá nhân, hộ gia đình lâm vào cảnh phá sản tại Hoa Kỳ.[308]

Mỹ là một quốc gia phát triển nhưng không có một nền bảo hiểm y tế phổ cập toàn dân. Người dân Mỹ phải đóng bảo hiểm y tế cao hơn dân Canada tới 14 lần (tức là tới gần 11.000 USD/năm). Cũng có loại bảo hiểm rẻ hơn, khoảng 3.000 USD/năm cho một người còn trẻ, khỏe mạnh và không tiền sử bệnh nghiêm trọng, nhưng loại bảo hiểm đó chỉ chi trả phần nào cho những lúc ốm nặng, còn bệnh nhẹ thì người bệnh phải tự trả tiền. Những gia đình có thu nhập trung bình thấp ở Mỹ sẽ không thể có đủ tiền mua bảo hiểm y tế. Năm 2005, 46,6 triệu người Mỹ hay 15,9% dân số không có bảo hiểm y tế, 5,4 triệu người hơn so với năm 2001. Nguyên nhân chính con số người không có bảo hiểm y tế gia tăng là vì số người Mỹ có bảo hiểm do công ty nơi họ làm việc bảo trợ giảm từ 62,6% năm 2001 xuống còn 59,5% năm 2005. Khoảng 1/3 số người không bảo hiểm y tế sống trong các hộ gia đình có lợi tức hàng năm trên 50.000 đôla, phân nửa số hộ gia đình đó có lợi tức trên 75.000 đô la. Một phần ba số người khác có tiêu chuẩn nhưng không đăng ký xin bảo hiểm y tế công cộng.[309]. Năm 2006, Massachusetts trở thành tiểu bang đầu tiên yêu cầu phải có bảo hiểm y tế;[310] California đang xem xét một luật tương tự.[311]. Chi phí cao cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ tại Hoa Kỳ có nhiều nguyên nhân khác nhau từ tiến bộ công nghệ, chi phí quản lý, giá thuốc, các nhà cung cấp tính phí cao hơn cho trang thiết bị, người dân Mỹ được nhận nhiều chăm sóc y tế hơn tại các quốc gia khác, mức lương cao của bác sỹ, chính sách kiểm soát của chính phủ, tác động của tố tụng, và hệ thống thanh toán của bên thứ ba giúp giảm chi phí điều trị.

Tội phạm và hình phạt

Tình trạng tội phạm

Tỉ lệ giết người tại một số quốc gia được chọn năm 2004 (năm 2000 cho Nga)

Thi hành luật pháp tại Hoa Kỳ là trách nhiệm chính yếu của cảnh sát địa phương và sở cảnh sát quận, với sự trợ giúp rộng lớn hơn của cảnh sát tiểu bang. Các cơ quan Liên bang như Cục Điều tra Liên bang (FBI) và Cục Bảo vệ Tòa án Hoa Kỳ (United States Marshals Service) có những nhiệm vụ đặc biệt. Ở cấp liên bang, và gần như ở mọi tiểu bang, pháp chế đều dựa vào một hệ thống luật phổ thông. Các tòa án tiểu bang thi hành đa số các vụ xử án hình sự; các tòa án liên bang nhận thụ lý một số tội ác đã được quy định nào đó cũng như các vụ chống án từ các hệ thống tòa tiểu bang.

So với các quốc gia trong Liên minh châu ÂuKhối Thịnh vượng chung, Hoa Kỳ có một tỉ lệ tội phạm tính chung là trung bình.[312] Trong số các quốc gia phát triển, Hoa Kỳ có mức độ tội phạm bạo lực trên trung bình và đặc biệt có mức độ cao về bạo lực do súng gây ra và hành động giết người.[313] Năm 2005, có 56 vụ giết người trên con số 1 triệu cư dân, so với 10 tại Đức[314] và 19 tại Canada.[315] Tỉ lệ các vụ giết người tại Hoa Kỳ giảm 36% từ năm 1986 đến 2000 và gần như không đổi kể từ đó.[316]

Theo báo cáo năm 2013 của Văn phòng Ma túy và Tội phạm của Liên Hiệp Quốc (UNODC), từ năm 2005 đến 2012, tỷ lệ giết người trung bình tại Hoa Kỳ là 4,9 trên 100.000 dân, thấp hơn so với mức trung bình trên toàn cầu là 6,2. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn cao hơn nhiều so với hầu hết các nước phát triển khác trên thế giới. Tỷ lệ giết người trong năm 2015 là 4,9 trên 100.000 người [317]. Năm 2016 có 17.250 vụ giết người, tăng 8,6% so với năm 2015 [318]

Hoa Kỳ cũng là nơi tồn tại nhiều băng đảng tội phạm khi ước tính có khoảng 33.000 băng nhóm đang hoạt động tại quốc gia này [319]. Các băng đảng đường phố quy mô lớn có xu hướng tập trung ở những khu đô thị đông dân như New York City, Los Angeles, Chicago, Philadelphia, Miami, Denver.

Hoa Kỳ có tỉ lệ người bị tống giam có lập hồ sơ[320] và tổng dân số tù nhân cao nhất[321] trên thế giới và hơn xa các con số cao nhất trong các quốc gia phát triển dân chủ: năm 2006, 750 trong mỗi 100.000 người Mỹ bị cầm tù trong năm đó, hơn 3 lần con số tại Ba Lan, quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) có tỉ lệ cao nhất kế tiếp.[322] Tỉ lệ hiện tại của Hoa Kỳ gần như cao gấp 5 lần rưỡi con số năm 1980 là 139 mỗi 100.000 người.[323] Đàn ông người Mỹ gốc châu Phi bị bắt giam có tỉ lệ gấp 6 lần tỉ lệ của đàn ông da trắng và ba lần so với tỉ lệ của đàn ông nói tiếng Tây Ban Nha. Tỉ lệ bị cầm tù ngày càng cao của Hoa Kỳ phần lớn là do những thay đổi trong việc xử phạt và những chính sách chống chất ma túy.[324] Trong năm 2013, Louisiana là bang có tỷ lệ bị giam giữ cao nhất (1.082 trên 100.000 người) [325][326], còn bang Maine là thấp nhất (285 trên 100.000 người) [325][327].

Mặc dù hình phạt tử hình đã bị xóa bỏ tại phần lớn các quốc gia Tây phương, nó vẫn còn tồn tại ở Hoa Kỳ đối với một số tội liên bang và quân sự nào đó, và hiện nay hình phạt tử hình vẫn còn tồn tại ở 31 tiểu bang. Từ khi hình phạt tử hình được phục hồi vào năm 1976, đã có trên 1.300 vụ xử tử tại Hoa Kỳ, phần lớn là ở ba bang: Texas, VirginiaOklahoma [328]. Năm 2015, Hoa Kỳ đứng thứ 5 về số vụ xử tử cao nhất trên thế giới sau Trung Quốc, Iran, Pakistan, và Ả Rập Saudi [329]. Nước Mỹ hiện cũng có 31/51 bang có áp dụng hình phạt tử hình.[330] Bên cạnh đó, nước Mỹ còn có những án tù ngang bằng với vô số án chung thân kỷ lục trong lịch sử tư pháp hiện đại.[331]

Tranh cãi về quyền sở hữu súng đạn

Một số học giả quy kết tỉ lệ cao các vụ giết người có mối tương quan với tỉ lệ số người sở hữu súng rất cao ở Hoa Kỳ, và sau đó là có liên quan đến luật sở hữu súng của Hoa Kỳ, rất dễ dàng được phép sở hữu súng nếu so với các nước phát triển khác.[332] Theo các cuộc khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew (Mỹ), dân số Mỹ chiếm chưa tới 5% dân số toàn cầu, nhưng đã sở hữu khoảng 45% số súng cá nhân trên toàn thế giới[333].

Ngay cả cảnh sát Mỹ cũng thường xuyên sử dụng súng để bắn chết tại chỗ những người có dấu hiệu chống cự. Riêng trong năm 2015, cảnh sát Mỹ đã bắn chết 986 người[334] Năm 2018, 998 người đã bị cảnh sát Mỹ bắn chết. Năm 2017, con số này là 987 người và năm 2016 là 963 người. Mapping Police Violence, một trang theo dõi các vụ bắn súng, thì cho rằng cảnh sát Mỹ đã giết 1.166 người vào năm 2018[335].

Nạn xả súng giết người hàng loạt ở Mỹ diễn ra nghiêm trọng do luật pháp cho phép sở hữu súng rất dễ dàng so với các nước khác. Riêng trong năm 2015, 13.286 người Mỹ đã bị giết bởi súng, không kể những người tự sát bằng súng[336] Năm 2017, có tới 39.773 người Mỹ chết vì súng (chưa kể số bị thương), tăng hơn 10.000 người chết so với năm 1999 (28.874 người). Trong số những người chết do súng trong năm 2017, 23.854 người chết vì tự sát (con số cao nhất trong 18 năm) và 15.919 chết do bị người khác giết. Tỷ lệ tử vong do súng theo độ tuổi trên 100.000 người tăng từ 10,3/100.000 vào năm 1999 lên 12/100.000 trong năm 2017[337].

Trong số những trường hợp tử vong liên quan đến súng đạn ở Hoa Kỳ, gần 2/3 là do tự tử, số còn lại là bị người khác giết bằng súng. Trong năm 2013 có khoảng 51,5% số vụ tự tử ở Mỹ được thực hiện bằng súng đạn, và các vụ tự tử chiếm tới 63% tổng số những cái chết liên quan đến súng [338].

Khoảng 1,4 triệu người Mỹ đã bị giết bởi súng kể từ năm 1968 tới 2011, nhiều hơn số lính Mỹ chết trong các cuộc chiến tranh cộng lại[336].

Quyền sở hữu súng đạn từ lâu đã là một khía cạnh đầy tranh cãi trong chính trị Hoa Kỳ, thường chia thành hai luồng quan điểm đối lập: Những người ủng hộ việc kiểm soát súng đạn ủng hộ các động thái của chính phủ nhằm tăng các quy định liên quan đến quyền sở hữu súng; trong khi những người ủng hộ quyền sử dụng súng đạn kêu gọi giảm bớt các quy định liên quan đến quyền sở hữu súng.

Các nhà lập pháp Mỹ thời lập quốc đã thông qua Tu chính án thứ hai của Hiến pháp Hoa Kỳ, được thông qua vào ngày 15 tháng 12 năm 1791, trong đó nêu rõ "Xét thấy lực lượng dân quân có tổ chức nghiêm chỉnh là rất cần thiết cho nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân chúng được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm"[339]. Những cuộc tranh luận xoay quanh lối diễn giải tu chính án đó ra sao. Nhiều người diễn giải Tu chính án thứ 2 có nghĩa là người dân có quyền tự do vũ trang mà không bị Chính phủ hạn chế. Nhưng sử gia Saul Cornell của Đại học Fordham nhận định rằng tu chính án thứ hai chú trọng hơn tới nghĩa vụ bảo vệ quốc gia của lực lượng dân quân, hơn là bảo vệ quyền sở hữu súng của mỗi cá nhân, nó không cấm việc Chính phủ đặt ra quy định kiểm soát súng. Tự do mua bán vũ khí đã giúp người định cư Hoa Kỳ chiếm lĩnh vùng miền tây hoang dã của đất nước trong thế kỷ 19. Tuy nhiên, khi biên giới biến mất và một hệ thống quốc phòng toàn quốc phát triển, mối liên kết giữa công dân và binh sĩ đã phai dần. Một lực lượng dân quân vũ trang đã không còn thích hợp trong một xã hội Mỹ hiện đại, nhưng Tu chính án số 2 thì đã không thay đổi suốt 200 năm qua[340]

Ngoài ra, khi Tu chính án thứ 2 ra đời thì loại súng duy nhất tồn tại là những khẩu súng hỏa mai, sau 200 năm thì súng ống hiện đại đã trở nên rất đa dạng và có sức sát thương vượt xa súng hỏa mai, dẫn tới việc diễn giải Tu chính án này phát sinh thêm mâu thuẫn trong việc: liệu người dân được phép hoặc không được phép giữ những loại súng gì? Ví dụ như Thẩm phán William Young của tòa liên bang khu vực Massachusetts đã phán định vào năm 2018 rằng: Tu Chính Án Số 2 cho phép công dân sở hữu súng, nhưng không cho phép người dân sở hữu một khẩu súng AR-15 hay những loại súng trường quân sự khác với băng đạn lớn[341]

Sau nhiều vụ xả súng xảy ra trong thời gian gần đây, một bộ phận công chúng Mỹ liên tục kêu gọi thắt chặt quyền sở hữu súng đạn, nhưng họ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của Hiệp hội Súng trường quốc gia Hoa Kỳ (NRA). NRA ra đời năm 1871, là tổ chức tự phát do những thợ săn và người thích súng ở Mỹ thành lập. Nhưng từ những năm 1960, khi nhiều người Mỹ lên tiếng yêu cầu kiểm soát súng đạn chặt chẽ hơn, các tập đoàn buôn bán vũ khí Mỹ đã hỗ trợ kinh phí để biến NRA đã trở thành một đoàn thể chính trị phản đối yêu cầu này, họ hoạt động rất hiệu quả ở cả cấp độ bang và liên bang. Tính đến thời điểm 2018, NRA có hơn năm triệu hội viên và là một trong số các tổ chức có thế lực nhất nước Mỹ, có tới tám tổng thống Mỹ từng là hội viên của tổ chức này. NRA có tiềm lực tài chính hùng hậu, tính riêng trong năm 2013, quỹ hoạt động của NRA lên đến 350 triệu USD, đến từ đóng góp của các thành viên và các tập đoàn sản xuất và buôn bán vũ khí. NRA thường xuyên chi rất nhiều tiền cho các chiến dịch vận động bầu cử Quốc hội cũng như bầu Tổng thống Mỹ. Đầu tháng 2/2019, Hạ viện Mỹ đã thông qua "Dự luật An toàn súng đạn" cho phép mở rộng việc kiểm tra lai lịch đối với gần như mọi trường hợp mua bán súng. Tuy nhiên, dự luật đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ tại Thượng viện, nơi đảng Cộng hòa nắm đa số và được NRA hỗ trợ.[333]

Theo một cuộc khảo sát của Gallup được tiến hành vào năm 2015 thì phần đông (52%) người Mỹ vẫn tin rằng việc bảo vệ quyền sở hữu súng đạn của người dân là quan trọng hơn việc thắt chặt các quy đinh về sử dụng và sở hữu súng đạn[342]. Tuy nhiên sau một loạt các vụ xả súng thời gian gần đây, nhiều cử tri đã ủng hộ thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn nhằm ngăn ngừa bạo lực súng đạn. Một cuộc thăm dò ý kiến cử tri của Fox News tháng 8 năm 2019 cho thấy 90% số người ủng hộ kiểm tra lý lịch phổ quát, 81% ủng hộ việc tước súng từ những người có nguy cơ gây án và 67% ủng hộ việc cấm vũ khí tấn công, tuy vậy cũng có tới 57% số người tham gia khảo sát cho biết rằng họ thích sống ở những bang cho phép người dân sở hữu súng hơn là những bang cấm súng[343].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hoa_Kỳ //nla.gov.au/anbd.aut-an35562417 http://www.globalresearch.ca/us-has-killed-more-th... http://www.learnquebec.ca/export/sites/learn/en/co... http://www.statcan.ca/Daily/English/050721/d050721... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F003380.php http://247wallst.com/special-report/2017/02/01/hap... http://adage.com/images/random/digitalfactpack2007... http://www.alexa.com/topsites/countries/US http://www.bbc.com/news/business-36599316 http://www.bbc.com/news/world-us-canada-34996604